Rank: Advanced Member
Groups: Registered
Joined: 10/11/2012(UTC) Posts: 1,016
Thanks: 731 times Was thanked: 378 time(s) in 179 post(s)
|
 Tình Ngát Trong Thơ
Con đường sáng tạo của nghệ sĩ rất thênh thang nhưng không có lối chung , mỗi người mỗi cách đi tìm một cõi riêng . Tâm hồn nghệ sĩ bao la dung nạp đa chiều , chất liệu cảm xúc bắt nguồn từ trong cái thực hoà với cái mộng , hoặc ngược lại , đôi khi từ vô thức vẫn thành tác phẩm . Người nghệ sĩ phải hoà theo số mệnh thăng trầm của lịch sử , đất nước , quê hương và con người . Phải sống với tha nhân để bắt tìm những nỗi niềm riêng đồng cảm , từ đó phác hoạ ra một chân trời mới của riêng mình nhằm cống hiến cho đời những giai điệu đẹp . Cảm xúc đâu dành riêng cho ai , người đời nào có khác chi văn thi sĩ , cũng cảm xúc , cũng rung động , nếu có khác chăng là tâm hồn người nghệ sĩ dễ cảm xúc và nhạy bén hơn để hoà nhập với ngoại cảnh qua cái tâm bằng góc nhìn độc đáo để chia xẻ những thương cảm vui buồn đớn đau của tha nhân . Đó là chất liệu sáng tác khơi dậy bao nỗi niền dệt thành những áng văn thơ , giai điệu say đắm , và khi đã làm rung cảm được lòng người thì đó là tác phẩm . Thế giới ngày nay đã thay đổi , sự văn minh tiến bộ trên lãnh vực khoa học khiến con người ngày càng thực nghiệm xa dần tính lãng mạn mộng mị , do đó một số đông công chúng đã hờ hững với những tác phẩm văn học nghệ thuật ! Dù biết thế , người nghệ sĩ ch ân chính vẫn tận tuỵ miệt mài đeo đuổi con đường văn nghệ để hướng về Chân Thiện Mỹ cho đời ; khi mà dòng đời và thời gian vẫn lặng lẽ trôi nhanh ! Làm sao có thể kéo ngược , hay ngăn thời gian ngừng trôi ? Chỉ có những tâm hồn nghệ sĩ mới có khả năng kéo ngược thời gian theo dòng suy tưởng quay về quá khứ tìm lại những dấu vết của kỷ niệm xưa .
Từ ngàn xưa những lời tỏ tình của trai gái gặp nhau rất lãng mạn , họ đã để lại trong Thi ca Việt Nam nhiều giai thoại hay , sau đó được các thi nhân ẩn danh minh hoạ ra câu thơ tặng cho đời . Một bài thơ tình tuyệt vời còn lưu truyền trong văn học mãi đến nay :
« Hôm qua tát nước đầu đình , Bỏ quên chiếc áo trên cành hoa sen . Em được thì cho anh xin , Hay là em để làm tin trong nhà » ( Ca Dao )
Thơ là thông điệp của tình yêu , là kho tàng cất giũ lời hẹn ước trăm năm của hai kẻ yêu nhau chứa đày hương thơm mật ngọt lẫn trái đắng của những cuộc tình . Thi sĩ Xuân Diệu một trong những người mở đầu cho trường phái lãng mạn trong thi ca Việt Nam đầu thế kỷ trước . Có thể nói Xuân Diệu là thi sĩ tiêu biểu cho Thơ Tình lãng mạn thời kỳ ấy . Nhà thơ đã cảm nhận tình yêu qua câu thơ tuyệt vời :
« Yêu là chết ở trong lòng một ít Vì mấy khi yêu mà chắc được yêu . Cho rất nhiều song nhận chẳng bao nhiêu ; Người ta phụ , hoặc thờ ơ , chẳng biết ... Phút gần gũi cũng như giờ chia biệt . Tưởng trăng tàn , hoa tạ với hồn tiêu , Vì mấy khi yêu mà chắc được yêu ! -- Yêu , là chết ở trong lòng một ít ... » ( Yêu , 1935 )
Vào cõi thơ là lạc cõi bồng bềnh vô tận , nơi ẩn chứa của những tâm hồn đa sầu đa cảm thi nhân về những mối tình thiêng liêng sâu kín nhất . Nhà thơ đi giữa cõi mộng và thực , hoà lẫn mộng thực cho đời thêm sắc màu . Thơ là bạn đồng hành của những tâm hồn đau khổ , thơ sẽ làm vơi đi nỗi buồn , vỗ về những niềm đau , thi vị hoá những cuộc tình dang dở biến thành một « thú đau thương » tặng cho đời . Nói đến thơ tình thời kỳ lãng mạn ở thế kỷ trước không thể quên người thi sĩ tài hoa tự nhận mình là « chân quê » đó là thi sĩ Nguyễn Bính . Có lẽ ngôn ngữ thơ ông bị ảnh hưởng nhiều từ ca dao nên mới tự nhận mình là chân quê . Nhưng « chân quê » ở đây là « chất Việt Nam » , cái hiền hoà « trong sáng » chứa trong tâm hồn người dân quê bình dị . Bút pháp tài tình , sử dụng điêu luyện ngôn ngữ chân phương , có thể xem thi sĩ Nguyễn Bính là một trong những những nhà thơ có nhiều bài thơ tình hay và độc đáo ở thời kỳ đó . Thơ tình lục bát một thể thơ độc đáo của Việt Nam , dễ bắt chước hình thức nhưng khi thực hành lại khó hay ! Thông thường những vần thơ lục bát dễ trùng nhau về thanh , cách gieo vần điệu , nhưng lại khó cách ngắt câu kép tạo nhịp . Rất khó dùng đảo ngữ , ngắt nhịp để hình ảnh câu thơ không rơi vào lối sáo mòn , ý thơ đã cũ xếp nếp , ngôn ngữ lại càng nhạt nhẽo ! Dòng thơ lục bát trữ tình của thi sĩ Nguyễn Bính đã thuộc về dân gian : « Hôm nay dưới bến xuôi đò Thương nhau qua cửa tò vò nhìn nhau . Anh đi đấy , anh về đâu ? Cánh buồm nâu , cánh buồm nâu , cánh buồm ... » ( Không Đề )
Thi nhân nặng nợ với tình thơ nào khác chi kiếp tằm nhả tơ . Hồn thơ tựa làn khói , mùi hương ; mà hương thì vô ảnh người đời chỉ cảm nhận chứ không thấy được hình tướng . Nhưng ngay cả lúc hữu hình , hồn thơ hoá thể thành sợi khói , vầng mây chúng ta đều nhìn thấy nhưng nào ai nắm bắt được ? Chỉ có con tim thi nhân mới biết hoá thể theo sự rung cảm , nhập vào ngoại cảnh thành những bông hoa đời .
Trong tiến trình của dòng lịch sữ thi ca kể từ thời thơ cổ đại đến dòng thơ tạo sinh hôm nay về hình thức , cấu trúc của thơ có nhiều thay đổi , Nhưng hồn thi nhân vẫn thế , vẫn là một cõi riêng như giọt sương mai mong manh dưới nắng hồng , vẫn long lanh toả ra muôn sắc , dù chỉ một thoáng sẽ tan vỡ mang theo màu diễm ảo về một cõi vô cùng . Nhập vào cõi thơ là sống trong cõi phiêu bồng . Có những hình ảnh chỉ thoáng trong giấc mộng , hay trong tâm tưởng rất đẹp và mộng như những bài thơ không lời nên không chép được nhưng vẫn làm say đắm lòng người đa cảm .
Từ ngàn xưa gió trăng vẫn thế , không mang cảm tính , nhưng kể từ khi có nhà thơ xuất hiện đã mang tâm cảnh hoà với ngoại cảnh để gió trăng kề cận , giao duyên với nhau . Gió tuy gần nhưng lại vô hình bóng , thế mà gió cũng biết lả lơi đùa trên làn tóc rối . . Trăng tuy xa vời vợi nhưng trăng bỗng hoá gần để ngậm ngùi , chia sẻ những đau thương của những mảnh đời vỡ vụn . Thi sĩ Hàn Mạc Tử , người nghệ sĩ tài hoa nhưng lại mắc một chứng bệnh nan y , nhà thơ thích ngắm trăng , đùa với gió , nhưng mỗi độ trăng tròn là cảm thấy đau đớn . Cái đau ở đây không phải là đau thể xác vì chứng nan y đã làm tê liệt các tế bào làm ông không còn cảm giác . Nhưng niềm đau trong tâm hồn là một khối sầu vẫn chất ngất . Thi sĩ hoà với gió trăng để vợi niềm đau . Những cảm xúc ấy đã hoạ lên một bức tranh qua câu thơ tuyệt vời :
« Trăng nằm sóng soải trên cành liễu Đợi gío đông về để lả lơi . Hoa lá ngây rình không muốn đọng , Lòng em hồi hộp chị Hằng ơi » ( Bẽn Lẽn )
Hoặc :
« Trăng , trăng , trăng , là trăng , trăng , trăng ! Ai mua trăng tôi bán trăng cho Không bán đoàn viên ước hẹn hò ... » ( Trăng Vàng Trăng Ngọc ) Thơ tình « lứa đôi » là những trái mộng đầu đời ai cũng có thể hái , chắt chiu kỷ niệm , gom nhặt cảm xúc trang trải lên trang giấy học trò thành nhiều bài thơ tình có bài hay , có bài dở , nhưng với thời gian những bài thơ ấy bay theo gió về một cõi mơ ! Để thành một bài thơ tình xuất sắc , độc đáo rất khó ! Cái khó ở đây cả nội dung lẫn hình thức . Ở tuổi mới lớn những tâm hồn mơ mộng có thể làm được nhiều thơ tình đầy cảm xúc nhưng nặng chất học trò . Người làm thơ chưa đủ ngôn ngữ chắt lọc , hiểu biết sâu rộng về cấu trúc thơ để có thể diễn đạt được những cái hay cái đẹp của thi ca vào trong cõi tình . Có người cắt xén những ca từ của những nhạc phẩm hoặc cóp nhặt những mẫu chuyện tình trong các tiểu thuyết Âu Á rồi cắt dán , vá víu gọi là sáng tạo ? ! Trong muôn vàn bài thơ tình thuở học trò cũng chỉ có một số ít bài hay đến với giới thưởng ngoạn , và số ít người làm thơ đó chính là thi sĩ với những bài thơ tình mang tính độc đáo . Thi sĩ Nguyễn Tất Nhiên là một trong số người làm thơ nổi tiếng khi còn rất trẻ năm xưa . Thơ ông mộc mạc nhưng có tính độc đáo . Cái hay của thơ ông là giữ nguyên bản ngôn ngữ học trò nhưng đầy tính nhạc , ý thơ vượt thoát khỏi khuôn khổ nhà trường , mang tình yêu lứa đôi vào giáo đường , những nơi thờ tự mà không e ngại cấm kỵ nhưng vẫn giữ tính tôn nghiêm . Nhà thơ giàu tưởng tượng , hư cấu cái thực của đời qua ngôn ngữ thành những hình ảnh sống động làm phong phú ý thơ :
... « vì tôi là linh mục không mặc áo nhà giòng nên suốt đời hiu quạnh nên suốt đời lang thang ! . . tín đồ là người tình người tình là ác quỉ ... » ( Linh Mục ) ( 1970 )
Nhà thơ còn ví người tình của mình như vị nữ tu :
« ... Em hiền như ma soeur Vết thương ta bốn mùa Trái tim ta làm mủ Ma soeur này ma soeur . . » Ma Sœur ( 1971 )
Những đoạn thơ được lập lại tạo thanh âm như nhịp láy làm nổi bật ý thơ . Các nhạc sĩ đã nhận được cái tính nhạc trong thơ ông nên phổ thành những ca khúc hay . Nhạc sĩ Phạm Duy đã phổ : «Thà Như Giọt mưa , Em Hiền Như Ma Soeur , Cô Bắc Kỳ Nho Nhỏ , Hai năm Tình lận Đận . Nhạc sĩ Anh Bằng phổ bài thơ Trúc Đào , và Nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang phổ một bài thơ khác ...
Người từ trăm năm về qua sông rộng ta ngoắc mòn tay trùng trùng gió lộng ( thà như giọt mưa ) vỡ trên tượng đá thà như giọt mưa khô trên tượng đá có còn hơn không mưa ôm tượng đá ) ( Khúc Tình Buồn , 1970 )
Thi sĩ Nguyễn Tất Nhiên là người ngoại đạo , yêu một người có đạo nên thường hay theo người mình yêu đi xem lễ , . Cuộc tình không thành , người tình đã đi lấy chồng , bỏ trường bỏ xóm xưa nên ít về chốn cũ . Nhà thơ cảm nhận sự bẽ bàng tột cùng của tình yêu , xót xa kỷ niệm nhưng ông vẫn đến giáo đường hướng tâm hồn về đức tin Thiên Chúa , dù rằng nơi ấy đã vắng tiếng cầu kinh của nàng !
« Hai năm tình lận đận Hai đứa cùng xanh xao ... Em không còn thắt bính Nuôi dưỡng thời ngây thơ Anh không còn lýnh quýnh Giữa sân trường trao thư ... Em bây giờ có lẽ Toan tính chuyện lọc lừa Anh bây giờ có lẽ Xin làm người tình thua ... Chuông nhà thờ đổ mệt Tượng Chúa gầy hơn xưa . . Anh bây giờ có lẽ Thiết tha hơn tín đồ ... » ( Hai năm tình lận đận ) ( 1972 ) Ở thời đại khoa học tiến bộ vượt bực , đời sống vật chất cao đã ảnh hưởng đến đời sống con người . Chất lãng mạn bị dần khô héo , mặc dù ngoại cảnh nơi xứ người vẫn bốn mùa thay đổi . Phải nặng tình thơ lắm thi nhân mới dám ôm cái nghiệp dĩ vào than , lắng hồn mình hoà với ngoại cảnh để thấy hoa cười trong nắng mai , sợi buồn giăng cỏ úa , và gom ngoại cảnh nhập thành tâm cảnh nghe nỗi buồn rả rích bò trong xương tuỷ , len qua tiếng trhở dài . Trên bước đường tha hương thơ là bạn đồng hành của người xa xứ . Thơ đã chia sẻ niềm đau , nỗi nhớ và sự cô đơn . Ở tuổi quá đôi mươi , người làm thơ bị đời cuốn hút , cuộc sống bị thực tế cọ sát , chất thơ học trò mơ mộng bị hoà với cuộc sống nhập theo từng hoàn cảnh , đời và thơ quyện nhau tạo thành những dòng chảy muôn hướng . Có những nhà thơ thích làm mới thi ca , muốn tìm tòi đổi mới ngôn ngữ , thể nghiệm một bút pháp lạ , một hình thức diễn đạt mới , làng thơ trong nước cũng hải ngoại bị dao động , xôn xao ! . Thơ tình tạm lắng xuống nhường cho những nguồn thơ khác như : Quê Hương , Thân phận , Chiến Tranh , Ngục Tù , Tâm Linh ... Thi sĩ cũng từ đó mà bước ra dệt gấm hoa cho đời . Ở tuổi trung niên và cao hơn ... Thơ « lứa đôi » lại càng xa vời , khó diễn đạt hơn những thể loại khác ... . khó về cảm hứng , sự rung động , lòng đắm say ... để dệt bài thơ hay ? Chỉ có thi sĩ mới rung cảm được với cái buồn tha nhân mà hoá thân nhập vai để diễn tả nỗi đau , sự bẽ bàng , giọt nước mắt của tha nhân , đồng điệu buông tiếng thở dài , hay vút cao lời hân hoan ca ngợi .
Thơ tình chứa đầy chất lãng mạn , là lời ru tiếng nấc của con tim như dòng suối mát hương thơm , nâng niu tình yêu , nên đôi khi ý thơ vượt trước thời đại , chối bỏ những rang buộc luân lý xã hội đương thời còn khép kín . Con người từ khi xuất hiện thi tính lãng mạn cũng phát sinh . Nhà thơ đã thả hồn mình theo trăng sao để gởi về nơi xa xăm ấy một chút tình . Chỉ có nhà thơ mới dám bộc lộ lòng mình . Thi sĩ TTKH để lại bài thơ tình còn lưu trong văn học mà một thời đã gây xôn xao đầy bao giấy mực :
« Từ đấy thu rồi thu lại thu Lòng tôi còn giá đến bao giờ . Chồng tôi vẫn biết tôi thương nhớ « Người ấy cho nên vẫn hững hờ » . Tôi vẫn đi bên cạnh cuộc đời , Ái ân lạt lẽo của chồng tôi . Mà từng thu chết , từng thu chết Vẫn dấu trong tâmbóng một người ... » ( Hai Sắc Hoa Ti Gôn )
Dòng lãng mạn hoà với tâm linh khiến hồn thơ chắp cánh bay vào cõi bồng phiêu , nơi chỉ còn lại chấm sang của tình yêu . Nương theo Mê Hồn Ca của thi sĩ Đinh Hùng để vào cõi huyền hoặc bằng con tim nồng cháy , như ánh lửa hơ ấm những tâm hồn ở bên kia bờ xa thẳm qua lối thơ Tượng Trưng được trau chuốt , gọt dũa , có nhiều ý hay lạ , nhiều hình ảnh và ngôn từ quái dị , yêu ma :
« Cười lên em , khóc lên em Đâu trăng tình sử nét trần duyên Gót sen tố nữ xôn xao đêm huyền . Ta đi lạc xứ thần tiên Hồn trùng dương hiển bong thuyền u minh Ta gởi bài thơ anh linh Hỡi người trong mộ có rung mình Nắm xương khô lạnh còn ân ái Bộ ngực bi thương vẫn rợn tình . hỡi người tuyết trinh , hỡi người tuyết trinh Mê em ta thoát than hình Nhập hồn cây cỏ đa tình mỗi đêm ... » ( Gởi Người Dưới Mộ )
Ở thuở ban đầu đường tình mới chớm nở nhà thơ xem thơ và người tình đều tri kỷ . Thơ đã giúp cho tình yêu thăng hoa . Nếu hội hoạ khởi đi từ óc tưởng tượng và do bàn tay khéo léo biết kết hợp đường nét , màu sắc , ánh sáng và bóng tối để tạo nên bức tranh ấn tượng thì thơ cũng cần có sự tưởng tượng để tạo nên hình ảnh linh động . trong bài thơ Tương Tư của thi sĩ Nguyên Sa là một bức tranh ấn tượng mà hoạ sĩ muốn hoạ lại nét thơ chắc phải ngừng cọ rất lâu để tìm chất liệu tạo hình : « Tôi đã gặp em tự bao giờ Kể từ nguyệt bạch xuống đêm khuya . Kể từ gió thổi trong vừng tóc , Hay lúc thu về cánh nhạn kia . Có phải em mang trên áo bay , Một phần gió thổi một phần mây . Hay là em gói mây trong áo ? Rồi thở cho làn áo trắng bay ... » ( Tương Tư )
Thi sĩ Thái can qua bài Em Biết Anh Đi : « Em biết anh đi chẳng trở về Dặm ngàn liễu khuất với sương che . Em đừng quay lại nhìn anh nữa : Anh biết em đi chẳng trở về » ( Anh Biết Em Đi ) Thi sĩ Vũ Hoàng Chương : « Bài thơ hạnh ngộ đã trao tay , Ôi mộng nào hơn giấc mộng này ? Mùi phấn em thơm mùi hạ cũ , Nửa như hoài vọng , nửa như say . Em đến như mây , chẳng đợi kỳ , Hương ngàn gió núi động hàng mi . Tâm tư khép mở đôi tà áo , Hò hẹn lâu rồi - Em nói đi ... » ( Bài Ca Hạnh Ngộ )
Thi sĩ Huy Cận : « ... Sợi buồn con nhện giăng mau ; Em ơi ! Hãy ngủ ... anh hầu quạt đây . Lòng anh mở với quạt này ; Trăm con chim mộng về bay đầu giường . Ngủ đi em , mộng bình thường ! Ru em sẵn tiếng thuỳ dương mấy bờ ... » ( Ngậm ngùi )
Ở trên đời , nếu chỉ có một loài hoa thì nghệ sĩ sẽ không còn cảm hứng sáng tác về sự nhiệm màu của thiên nhiên ? Thơ cũng như hoa muôn màu muôn sắc , tuỳ theo nhịp đập rung cảm của thi nhân . Nhà thơ không làm công việc của nhà lý luận , nhà khoa học , nhà thần học hay triết gia ... để tìm cái mới lạ trong thế giới hiện hữu , cái huyền bí của vũ trụ ... & ... nhưng thi nhân có thể sống với với tôn giáo , luân lý qua tâm linh để phát hiện thêm lẽ đạo của cuộc đời , và sống triết qua thơ . Hồn thơ tựa ánh sao băng , thoáng trên bầu trời từ một hành tinh xa xăm nào đó trong vũ trụ , lạc xuống trần , đọng trên kẽ lá thành những hạt sương mai . Bỗng ngọn gió vô tình lướt qua lay động cành cây , làm vỡ những viên ngọc trời thành muôn mảnh . Trước khi tan biến nó vẫn dựng được màu sắc rực rỡ của bình minh .
Đỗ Bình Những ngày Đông Paris , C/N 2012/03/09
Edited by user Monday, June 24, 2013 4:03:15 PM(UTC)
| Reason: Not specified
|